Lịch sử Máy bay cường kích

P-38 Lightning

Trong Chiến tranh thế giới I, máy bay được thiết kế chuyên dụng với tên gọi "tiêm kích đào rãnh" như Sopwith Camel TF.1Boeing GA-1 đã được thử nghiệm nhưng không được quan tâm.

Sự phát triển của máy bay cường kích được bắt đầu vào giữa Thế chiến I, phần lớn là những máy bay tiêm kích hoặc máy bay ném bom hạng nhẹ được sửa chữa lại để thực hiện nhiệm vụ. Sau khi Chiến tranh thế giới I kết thúc, Hoa Kỳ nắm lấy vai trò quyền lực bá chủ toàn cầu và thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đã trở thành lực lượng được ưu tiên cho các hoạt động can thiệp quân sự tại mọi địa điểm và không lực của thủy quân lục chiến cũng được huy động theo. Tại một số địa điểm như Haiti, Cộng hoà DominicanaNicaragua, các phi công của không lực thủy quân lục chiến đã được bắt đầu thử nghiệm chiến thuật tấn công mặt đất để hỗ trợ cho các đơn vị mặt đất thực hiện nhiệm vụ chính. Chính ở Haiti mà không lực thủy quân lục chiến đã bắt đầu phát triển chiến thuật ném bom bổ nhào và ở Nicaraugua họ đã hoàn thiện chiến thuật này. Trong khi những quốc gia khác và các quân chủng khác đang thử những kỹ thuật biến đổi này, thì phi công thủy quân lục chiến đã trở thành lực lượng đầu tiên thực hành nó và làm nó trở thành một phần học thuyết chiến thuật của họ.[1]

Khi Chiến tranh thế giới II bắt đầu, động cơ khỏe khan hiếm và máy bay phải thích hợp với những vai trò riêng lẻ. Máy bay cường kích trong thời kỳ này nói chung được tạo ra cho vai trò không quan trọng và vì vậy nó được phát triển rất ít. Có lẽ máy bay vào đầu cuộc chiến được thực hiện đúng chức năng của mình là Henschel Hs 123, một máy bay hai tầng cánh. Những người Đức đã thực hiện trên một sự thay thế thích hợp và cuối cùng đã tạo ra Henschel Hs 129, loại máy bay này có buồng lái được bọc thép và cửa sổ bằng kính chịu lực được đánh giá cao. Chỉ có một số loại máy bay Hs 129 nhỏ được chế tạo, tuy nhiên, người Đức lại sử dụng rộng rãi những máy bay ném bom bổ nhào Junkers Ju 87 Stuka trong vai trò cường kích. Một ví dụ nổi tiếng hơn là Ilyushin Il-2 Shturmovik, một loại máy bay ném bom hạng nhẹ đã được thay đổi để thực hiện vai trò cường kích với những phiên bản nâng cấp khác nhau. Stalin tin rằng những chiếc Il-2 sẽ giành thắng lợi trong cuộc chiến.

Il-2

Khi sức mạnh động cơ đã được cải thiện, những thay đổi rẽ ngoặt mạnh mẽ đã diễn ra trong tiến trình của cuộc chiến, những máy bay tiêm kích ban ngày trung bình đã đủ khả năng để thực hiện vai trò cường kích, và một vài thiết kế thành công nhất là những thiết kế hiện hành được sửa đổi nhỏ. Một trong số những thiết kế thành công là loại Hawker Typhoon của Không quân Hoàng gia Anh. Người Đức đã chế tạo một loạt phiên bản F và G phỏng theo loại máy bay Focke-Wulf Fw 190 hoạt động với cùng mục đích. Cùng lúc đó Không lực Bộ binh Hoa Kỳ cũng đổi chỗ những máy bay tiêm kích tiền tuyến cũ thành máy bay cường kích trong chiến tranh, đáng chú ý là P-38 LightningP-47 Thunderbolt, trong khi máy bay mới thực hiện vai trò ưu thế trên không.

Khi những khẩu súng máy và pháo đã đủ khả năng chống lại bộ binh và các loại xe cơ giới hạng nhẹ, và một hoặc hai quả bom nhỏ có thể dễ dàng được các máy bay tiêm kích mang theo, thì những vũ khí để chống lại xe tăng hạng năng như súng 40 mm Vickers S hay rocket (như rocket 60 lb RP-3) đang có nhu cầu cấp thiết. Những trang bị trên Hawker Hurricane đã có hiệu quả tốt trong Chiến dịch Bắc Phi, sau đó nó được sử dụng bởi rất nhiều máy bay của RAF trong số đó có Typhoon. Cả Hoa KỳLiên Xô đều sử dụng rất nhiều các loại rocket khác nhau trên máy bay cường kích. Người Đức cũng đã sử dụng rocket, cũng như những quả bom chùm đầu tiên.